Chú thích Phan_Trọng_Chinh

  1. Trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
  2. Trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa có bốn vị Trung tướng được xem là thanh liêm và đức độ, được giới quân nhân đương thời truyền tụng: "Nhất Thắng, Nhì Chinh, Tam Thanh, Tứ Trưởng":
    Nhất Thắng: Nguyễn Đức Thắng, Nhì Chinh: Phan Trọng Chinh, Tam Thanh: Nguyễn Viết Thanh, Tứ Trưởng: Ngô Quang Trưởng.
  3. Tiểu đoàn 3 Nhảy dù được thành lập ngày 1/9/1952 tại Trường Bưởi (Hà Nội), do các sĩ quan người Pháp chỉ huy đến ngày 19/5/1955.
    Từ ngày 20/5/1955, người Pháp chuyển giao Tiểu đoàn 3 Nhảy dù sang Quân đội Quốc gia, cho đến ngày 30/4/1975 trải qua các Tiểu đoàn trưởng sau đây:
    -Đại úy Phan Trọng Chinh, chỉ huy từ 20/5/1955 đến 19/8/1956.
    -Đại úy Nguyễn Văn Lộc, chỉ huy từ 20/8/1956 đến 11/11/1960.
    -Thiếu tá Đàm Văn Quý (Về sau biệt phái sang Cảnh sát Quốc gia. Năm 1968 khi đang là Trung tá phụ tá Tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia, bị tử thương ở mặt trận tết Mậu thân, được truy thăng Đại tá), chỉ huy từ 12/11/1960 đến 10/5/1961.
    -Thiếu tá Khiếu Hữu Diêu (Sinh năm 1928 tại Thái Bình, tốt nghiệp trường Võ bị Đà Lạt K9. Sau cùng là Đại tá Tỉnh trưởng tỉnh An Giang), chỉ huy từ 11/5/1961 đến 24/5/1965.
    -Thiếu tá Trương Kế Hưng (Tốt nghiệp trường Võ bị Đà Lat K8. Về sau mang cấp Trung tá), chỉ huy từ 25/5/1965 đến 7/9/1966.
    -Thiếu tá Trần Quốc Lịch, chỉ huy từ 8/9/1966 đến 9/7/1968.
    -Thiếu tá Lê Văn Phát (Sinh năm 1931, tốt nghiệp trường Võ khoa Thủ Đức K4. Sau cùng là Đại tá Tham mưu trưởng Sư đoàn Nhảy dù), chỉ huy từ 10/7/1968 đến 4/10/1971.
    -Thiếu tá Trần Văn Sơn (Tốt nghiệp trường Võ khoa Thủ Đức K8. Sau cùng là Trung tá Lữ đoàn phó Lữ đoàn 2 Nhảy dù, tử trận ở Nha Trang khi đang cùng đơn vị di tản chiến thuật), chỉ huy từ 5/10/1971 đến 7/7/1972.
    -Thiếu tá Võ Thanh Đồng (Tốt nghiệp trường Võ khoa Thủ Đức, về sau mang cấp Trung tá), chỉ huy từ 8/7/1972 đến tháng 9/1974.
    -Thiếu tá Lã Quý Trang (Tốt nghiệp trường Võ bị Đà Lạt K18), chỉ huy từ tháng 8/1974 đến 30/4/1975.
  4. Thiếu tá Nguyễn Văn Lộc sinh năm 1932 tại Ba Xuyên, tốt nghiệp khóa 5 võ bị Liên quân Đà Lạt. Sau cùng là Đại tá Tham mưu trưởng Bộ chỉ huy Biệt động quân Trung ương, đầu năm 1975 được cử làm Tư lệnh Sư đoàn 106 Biệt động quân tân lập
  5. Năm 1959 Liên đoàn Nhảy dù được nâng cấp và đổi tên thành Lữ đoàn Nhảy dù
  6. Thiếu tá Lữ Đình Sơn giải ngũ cuối năm 1963 ở cấp Trung tá.
  7. Trung tá Phạm Văn Út, sau cùng là Đại tá Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng An Xuyên.
  8. Tướng Nguyễn Thanh Sằng chuyển ra miền Trung làm Tư lệnh Sư đoàn 22 Bộ binh.
  9. Tướng Nguyễn Bảo Trị đang là Chỉ huy trường Chỉ huy Tham mưu, được điều về Trung ương làm Phụ tá Quân huấn cho Tổng Tham mưu trưởng kiêm Tổng cục trưởng Tổng cục Quân huấn thay tướng Phan Trọng Chinh.
  10. Cụ Phan Trọng Vinh, nguyên là Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 22 Việt Nam. Năm 1952 tử trận tại Vĩnh Bảo, Hải Phòng.
  11. Cụ Bùi Phó Chí (1907-1987), tốt nghiệp khóa 1 trường Võ bị Tông Sơn Tây, nguyên Đại úy Liên đoàn trưởng Liên đoàn Thủy quân Lục chiến (1955), giải ngũ năm 1956.
  12. Ông Phan Trong Hoan, xuất thân từ Thiếu sinh quân Việt Nam Cộng hòa, giải ngũ ở cấp Trung úy.
  13. Ông Phan Trọng Thiên, tốt nghiệp khóa 6 Võ bị Đà Lạt, cấp bậc sau cùng là Đại tá Bộ binh.
  14. Ông Phan Trọng Sinh, tốt nghiệp khóa 11 Võ bị Đà Lạt, cấp bậc sau cùng là Trung tá Nha Kỹ thuật.